TRUNG TÂM QUYỀN TÁC GIẢ VIỆT NAM

Độc đáo trang phục người Tày Việt nam

Cập nhật: 9/8/2021 | 11:05:29 AM

Người Tày tên gọi khác Thổ. Dân số: 1.626.392 người, sinh sống ở Việt Nam từ rất sớm, có thể từ nửa cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên

Người Tày tên gọi khác Thổ. Dân số: 1.626.392 người (Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009). Nhóm địa phương: Thổ, Ngạn, Phén, Thu Lao và Pa Dí. Ngôn ngữ: Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (ngữ hệ Thái - Ka Ðai). Lịch sử: Người Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, có thể từ nửa cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên.

Hoạt động sản xuất: Người Tày là cư dân nông nghiệp có truyền thống làm ruộng nước, từ lâu đời đã biết thâm canh và áp dụng rộng rãi các biện pháp thuỷ lợi như đào mương, bắc máng, đắp phai, làm cọn lấy nước tưới ruộng. Họ có tập quán đập lúa ở ngoài đồng trên những máng gỗ mà họ gọi là loỏng rồi mới dùng dậu gánh thóc về nhà. Ngoài lúa nước người Tày còn trồng lúa khô, hoa màu, cây ăn quả... Chăn nuôi phát triển với nhiều loại gia súc, gia cầm nhưng cách nuôi thả rông cho đến nay vẫn còn khá phổ biến. Các nghề thủ công gia đình được chú ý. Nổi tiếng nhất là nghề dệt thổ cẩm với nhiều loại hoa văn đẹp và độc đáo. Chợ là một hoạt động kinh tế quan trọng.

Ăn: Trước kia, ở một số nơi, người Tày ăn nếp là chính và hầu như gia đình nào cũng có ninh và chõ đồ xôi. Trong các ngày tết, ngày lễ thường làm nhiều loại bánh trái như bánh chưng, bánh giày, bánh gai, bánh dợm, bánh gio, bánh rán, bánh trôi, bánh khảo... Ðặc biệt có loại bánh bột hấp dẫn nhân bằng trứng kiến và cốm được làm từ thóc nếp non hơ lửa, hoặc rang rồi đem giã.

  

Khác biệt trang phục Người Dao - Người Tày

Mặc: Bộ y phục cổ truyền của người Tày làm từ vải sợi bông tự dệt, nhuộm chàm, hầu như không thêu thùa, trang trí. Phụ nữ mặc váy hoặc quần, có áo cánh ngắn ở bên trong và áo dài ở bên ngoài. Nhóm Ngạn mặc áo ngắn hơn một chút, nhóm Phén mặc áo màu nâu, nhóm Thu Lao quấn khăn thành chóp nhọn trên đỉnh đầu, nhóm Pa Dí đội mũ hình mái nhà còn nhóm Thổ mặc như người Thái ở Mai Châu (Hoà Bình). Có quan điêm cho rằng, áo dài truyền thống của Việt Nam hiện nay là sự kế thừa, cách điệu từ trang phục của người Tày cổ bởi có nhiều đặc tính, thiết kế tương đồng và đều tôn nên vẻ đẹp trong sáng thanh thoát của người phụ nữ Việt.

Ở: Người Tày cư trú ở vùng thung lũng các tỉnh Ðông Bắc, từ Quảng Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang đến Lào Cai, Yên Bái. Họ thích sống thành bản làng đông đúc, nhiều bản có tới hàng trăm nóc nhà. Ngôi nhà truyền thống của người Tày là nhà sàn có bộ sườn làm theo kiểu vì kèo 4, 5, 6 hoặc 7 hàng cột. Nhà có 2 hoặc 4 mái lợp ngói, tranh hay lá cọ. Xung quanh nhà thưng ván gỗ hoặc che bằng liếp nứa.

Phương tiện vận chuyển: Với những thứ nhỏ, gọn người Tày thường cho vào dậu để gánh hoặc cho vào túi vải để đeo trên vai, còn đối với những thứ to, cồng kềnh thì dùng sức người khiêng vác hoặc dùng trâu kéo. Ngoài ra, họ còn dùng, mảng để chuyên chở.

Quan hệ xã hội: Chế độ quằng là hình thức tổ chức xã hội đặc thù theo kiểu phong kiến sơ kỳ mang tính chất quý tộc, thế tập, cha truyền con nối. Trong phạm vi thống trị của mình quằng là người sở hữu toàn bộ ruộng đất, rừng núi, sông suối... vì thế có quyền chi phối những người sống trên mảnh đất đó và bóc lột họ bằng tô lao dịch, bắt phải đến lao động không công và tô hiện vật, buộc phải cống nạp. Chế độ quằng xuất hiện từ rất sớm và tồn tại dai dẳng mãi đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

Cưới xin: Nam nữ được tự do yêu đương, tìm hiểu nhưng có thành vợ thành chồng hay không lại tuỳ thuộc vào bố mẹ hai bên và "số mệnh" của họ có hợp nhau hay không lại tuỳ thuộc vào bố mẹ hai bên và "số mệnh" của họ có hợp nhau hay không. Vì thế trong quá trình đi tới hôn nhân phải có bước nhà trai xin lá số của cô gái về so với lá số của con mình. Sau khi cưới, cô dâu ở nhà bố mẹ đẻ cho đến khi có mang sắp đến ngày sinh nở mới về ở hẳn bên nhà chồng.

Sinh đẻ: Khi có mang cũng như trong thời gian đầu sau khi đẻ, người phụ nữ phải kiêng cữ nhiều thứ khác nhau với ước muốn được mẹ tròn, con vuông, đứa bé chóng lớn, khoẻ mạnh và tránh được những vía độc hại.

Sau khi sinh được 3 ngày cúng tẩy vía và lập bàn thờ bà mụ. Khi đầy tháng tổ chức lễ ăn mừng và đặt tên cho trẻ.

Ma chay: Ðám ma thường được tổ chức linh đình với nhiều nghi lễ nhằm mục đích báo hiếu và đưa hồn người chết về bên kia thế giới. Sau khi chôn cất 3 năm làm lễ mãn tang, đưa hồn người chết lên bàn thờ tổ tiên. Hàng năm tổ chức cúng giỗ vào một ngày nhất định.

Nhà mới: Khi làm nhà phải chọn đất xem hướng, xem tuổi, chọn ngày tốt. Trong ngày vào nhà mới chủ gia đình phải nhóm lửa và giữ ngọn lửa cháy suốt đêm đến sáng hôm sau.

Thờ cúng: Người Tày chủ yếu thờ cúng tổ tiên. Ngoài ra còn thờ cúng thổ công, vua bếp, bà mụ.

Lễ tết: Hàng năm có nhiều ngày tết với những ý nghĩa khác nhau. Tết Nguyên đán, mở đầu năm mới và tết rằm tháng 7, cúng các vong hồn là những tết lớn được tổ chức linh đình hơn cả. Tết gọi hồn trâu bò tổ chức vào mùng 6 tháng 6 âm lịch, sau vụ cấy và tết cơm mới, tổ chức trước khi thu hoạch là những cái tết rất đặc trưng cho dân nông nghiệp trồng lúa nước.

Lịch: Người Tày theo âm lịch.

Học: Chữ nôm Tày xây dựng trên mẫu tự tượng hình, gần giống chữ nôm Việt ra đời khoảng thế kỷ XV được dùng để ghi chép truyện thơ, bài hát, bài cúng... Chữ Tày-Nùng dựa trên cơ sở chữ cái La-tinh ra đời năm 1960 và tồn tại đến giữa năm 80 được dùng trong các trường phổ thông cấp I vùng có người Tày, Nùng cư trú.

Văn nghệ: Người Tày có nhiều làn điệu dân ca như lượn, phong slư, phuối pác, phuối rọi, vén eng... Lượn gồm lượn cọi, lượn slương, lượn then, lượn nàng ới... là lối hát giao duyên được phổ biến rộng rãi ở nhiều vùng. Người ta thường lượn trong hội lồng tồng, trong đám cưới, mừng nhà mới hay khi có khách đến bản. Ngoài múa trong nghi lễ ở một số địa phương có múa rối với những con rối bằng gỗ khá độc đáo.

Chơi: Trong ngày hội lồng tồng ở nhiều nơi tổ chức ném còn, đánh cầu lông, kéo co, múa sư tử, đánh cờ tướng... Ngày thường trẻ em đánh quay, đánh khăng, đánh chắt, chơi ô...

Nhìn chung, người Tày là nhánh người Việt cổ, phong tục tập quán của người Tày ảnh hướng nhất định đến phong tục tập quán chung của người Việt.

Trang phục người Tày - Tuyên Quang

Người Tày ở Tuyên Quang có dân số đông thứ hai sau người Kinh. Địa bàn sinh sống phân bố rộng tập trung nhiều ở khu vực Chiêm Hóa, Na Hang, Lâm Bình. Dân tộc Tày ở Tuyên Quang là cộng đồng thuần nhất, điều đó thể hiện qua bộ trang phục truyền thống với sắc màu chủ yếu là màu chàm và màu đen,  chứa đựng nhiều nét tinh hoa văn hóa độc đáo đáng tự hào. 

Trang phục của phụ nữ Tày có vẻ đẹp từ sự giản đơn, không cầu kỳ tạo sự nền nã, duyên dáng. Chất liệu thường bằng vải bông hoặc lụa với màu sắc chủ đạo là màu chàm, đen, không rực rỡ, không thêu thùa hay ghép vải cầu kỳ, nhưng có điểm nhấn bằng những phụ kiện đi kèm như vòng cổ bằng bạc, thắt lưng đính xà tích. Nét nổi bật của trang phục là nghệ thuật tạo hình, gọn gàng thành thoát, làm tôn lên vẻ đẹp nền nã của phụ nữ Tày. Ở Tuyên Quang, phụ nữ người Tày có hai lọai trang phục, gồm: ao cánh ngắn mặc với váy và áo dài 5 thân mặc với quần.

Phụ nữ Tày mặc áo cánh ngắn với váy, may theo kiểu áo xẻ ngực, cổ tròn, chiết eo có hai túi nhỏ ở hai vạt trước. Những người trẻ tuổi thường mặc váy dài gần mắt cá chân, người già mặc váy lửng đến đầu gối. Váy gồm có 3 phần: cạp, thân, gấu. Phần cạp rộng khoảng 3cm, làm bằng các loại vải khác nhau, thường là vải hoa, may theo hình thức luồn chun hoặc dây rút.

Áo dài may theo kiểu 5 thân, cài cúc ở nách, tà dài đến lưng, bắp chân có chiết eo gần giống áo dài của người kinh; quần ống rộng, dài đến mắt cá chân. Khi mặc áo dài, phụ nữ Tày dùng thắt lưng băng lụa tơ tằm quấn quanh eo, buộc và thả ra sau lưng thành dải dài đến kheo chân, các cô gái trẻ thường cuốn thắt lưng màu xanh, đỏ; người lớn tuổi dùng màu chàm, đen.

Đồ trang sức cũng là điểm nhấn quan trọng trong trang phục truyền thống của người Tày. Nó đều được làm bằng bạc, thường có hoa tai, nhẫn, vòng tay, vòng cổ, những người khá giả thường có thêm bộ xà tích đeo bên sườn phải. Đặc biệt là chiếc vòng cổ của phụ nữ Tày được làm rộng hơn vòng cổ của một số dân tộc khác, vòng màu trắng nổi bật trên chiếc áo chàm đen làm tăng thêm sự đằm thắm của bộ trang phục.

Trước những biến đổi của đời sống xã hội hiện đại, nhưng người Tày ở Tuyên Quang vẫn gìn giữ, bảo tồn, duy trì và phát huy những giá trị di sản văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc mình. Trong đó, việc bảo tồn, gìn giữ và sử dụng trang phục truyền thống của người Tày là một nét rất độc đáo, có giá trị nghệ thuật luôn được người Tày trân trọng và phát huy.

Tổng hợp từ Địa chí Tuyên Quang và Bức tranh Văn hóa các Dân tộc Việt Nam (NXB Giáo dục).

Ảnh minh họa do VCOP cung cấp (trang phục trong ảnh có thể đã được cách tân so với trang phục cổ của dân tộc Tày)

 

 

Banner Toan trang_Hoi nhap quoc te_VCOP
Trở thành người đầu tiên bình luận cho bài viết này!
Tin cùng chủ đề